Lịch sử Tuồng

Diễn viên trong tuồng cung đình ở Huế, hình vẽ năm 1874Một lớp Tuồng xưaDiễn viên Tả Giang trong vai Lữ Bố, vở Phụng Nghi Đình 1960 diễn ở Sài Gòn

Theo nhiều học giả, tuồng xuất phát từ ca vũ dân tộc Việt Nam, song trong quá trình phát triển, tuồng đã tiếp nhận nhiều trình thức biểu diễn và hóa trang của Hí Kịch.

Lối hát tuồng du nhập vào Việt Nam vào thời điểm nào chưa được minh xác.

Truyền thuyết ghi rằng vào thời Tiền Lê năm 1005, một kép hát người Hoa tên là Liêu Thủ Tâm đến Hoa Lư và trình bày lối hát xướng thịnh hành bên nhà Tống và được vua Lê Long Đĩnh thâu dụng, bổ là phường trưởng để dạy cung nữ ca hát trong cung.[1]

Sang thời nhà Trần, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn bắt được một tên quân nhà Nguyên tên là Lý Nguyên Cát vốn là kép hát. Vương tha tội chết cho Cát và sai dạy lối hát đó cho binh sĩ. Cát cho diễn vở Vương mẫu hiến đào để vua ngự lãm cùng các triều thần xem. Ai cũng cho là hay.[1] Các loại vai diễn cũng theo sự kiện này lần đầu được ghi nhận, như đán nương (đào), quan nhân (kép), châu tử (tướng), sửu nô (hề),..

Tuy nhiên người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật tuồng Việt Nam là Đào Duy Từ (1572-1634). Năm 1627, Đào Duy Từ là người đầu tiên đã mang về cho chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên nghệ thuật tuồng.

Miền Trung Việt Nam trở ra gọi tuồng do chữ "Liên Trường" là kéo dài liên tiếp thành một vở tuồng tích có khởi đầu truyện, có hồi kết cuộc, phân biệt với các ca diễn từng bài ngắn, từng trích đoạn. Từ "liên trường" do ngôn ngữ địa phương mà thành "luông tuồng", "luôn tuồng"... Còn trở vào trong, được gọi là Hát Bội hay Bộ.

Vào thời Nguyễn, tuồng đạt tới đỉnh cao khi được các vị vua yêu thích, cho soạn vở, dành nhiều ưu đãi và mở trường đào tạo nghệ sĩ. Hàng loạt tác giả soạn tuồng như Đào Tấn,...đã tạo nên nhiều tác phẩm lớn. Trong dân gian, tuồng cũng có sức ảnh hưởng lớn, đặc biệt ở Bình Định. Ca dao có câu

" Bỏ cửa bỏ nhà vì ma hát Bội"

Sang thế kỷ XX với sự ra đời của cải lươngkịch nói thu hút nhiều khán giả, nghệ thuật tuồng suy yếu nhiều tuy có cố gắng phục hưng với loại tuồng xuân nữ, tức là tuồng diễn theo đề tài xã hội tân thời và hát theo điệu "xuân nữ". Loại tuồng này pha phong cách cải lương, đánh võ Tàu... Dù vậy giới hâm mộ tuồng càng ngày càng ít.[2]

Tập tin:Tuồng.jpegTrích Đoạn Ôn Đình chém Tá trong vở tuồng cổ điển Sơn Hậu

Hà Nội vào đầu thế kỷ XX có một rạp hát riêng diễn tuồng hát bội, gọi là rạp Quảng Lạc. Lối diễn thì giống như lối tuồng miền Trung cả.[3]

Tới những năm khi Chính phủ VNDCCH thành lập, ban đầu tuồng bị coi là tàn dư phong kiến, nhưng sau đó đã được đánh giá nghiêm túc và được chính Chủ tịch Hồ Chí Minh xem và khen ngợi, Tuồng trở thành loại hình sân khấu được công nhận là đặc sắc và được phát triển, với sự tập hợp các nghệ nhân Bắc, Trung, Nam, thành lập các đoàn hát và mở lớp truyền thụ, xuất hiện hàng loạt nhà nghiên cứu, các nghệ sĩ tiếp tục kế thừa và sáng tạo vốn quý của nghệ thuật Việt Nam, là một trong những loại hình sân khấu chủ yếu của Việt Nam suốt thế kỷ XX, được công chúng yêu thích.

Tuy nhiên, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam, bước vào thời kì hội nhập, từ những năm cuối thế kỉ XX, tuồng đang mất dần vị thế và khán giả, thiếu hụt nhân lực và có nguy cơ mai một.